Trong sinh lý hô hấp, chúng ta cần quan tâm đến 3 loại áp lực (hay áp suất):
1. Intrapulmonary pressure hay áp lực trong phổi (thì hít vào là -3 mmHg, thì thở ra là +3 mmHg)
2. Intrapleural pressure hay áp lực trong khoang màng phổi (thì hít vào là -6 mmHg, thì thở ra là -3 mmHg)
3. Transpulmonary pressure hay áp lực xuyên phổi (thì hít vào là +3 mmHg; thì thở ra là +6 mmHg)
Vậy cụ thể, các khái niệm áp lực này được hiểu như thế nào?
Mình nhớ hai nguyên tắc liên quan đến áp suất: (1) Dòng khí đi từ nơi có áp lực cao về nơi có áp lực thấp; (2) Áp lực âm sẽ kéo mọi thứ về phía nó.
Bình thường phổi sẽ được giữ bởi 2 lực kéo ngược chiều nhau (thành ngực kéo phổi nở ra), nhu mô kéo phổi xẹp dô. Áp lực kéo phổi về phía thành ngực chống lại tác động kéo xẹp của nhu mô được tạo ra do áp suất dưới khí quyển (subatmospheric pressure hay tạm hiểu là áp lực âm) trong khoang màng phổi. Quan sát phần thông số, áp lực trong khoang màng phổi thấp hơn (âm hơn) trong thì hít vào bởi vì làm giãn rộng khoang ngực chứa khí hơn so với thì thở ra. Tuy nhiên, áp lực trong khoang màng phổi bình thường thấp hơn áp lực trong phổi ở cả thì hít vào và thở ra. Và sự chênh lệch áp lực xuyên thành được gọi là transpulmonary (or transmural) pressure – sự chênh áp giữa áp lực trong phổi và áp lực trong khoang màng phổi.
Định luật Boyle’s trong vật lý: P1V1 = P2V2, P và V tỉ lệ nghịch với nhau. Thì hít vào, giảm áp lực trong phổi mức dưới áp suất khí quyển, nên kéo dòng khí vào làm tăng thể tích lên. Ngược lại thì thở ra, áp lực trong phổi tăng trên mức áp suất khí quyển, đẩy dòng khí ra làm giảm thể tích trong phổi.
Tài liệu tham khảo: Human physiology 12th